Đào Đăng Mạnh's Blog

Thứ Ba, 12 tháng 4, 2016

7 bước đã nói tiếng anh thành thạo - How to speak English fluently?

Step 1: Start small
Mục tiêu đúng đắn , kế hoạch phù hợp: Tại sao lại cần tiếng Anh, mục tiêu học tiếng Anh là gì. Tạo động lực học cho chính bạn. Đừng lên kế hoạch học 1 tiếng tiếng Anh mỗi ngày, chắc chắn bạn sẽ không thực hiện được, sau 10 ngày bạn sẽ quên nó vì chính bản thân mình cũng từng như vậy. Hãy bắt đầu như:
                VD học tiếng Anh ít nhất 10 phút mỗi ngày
Step 2: Listen a lot
Luyên nghe tiếng Anh nhiều nhất có thể. Nghe những gì bạn thích nghe, bạn hiểu và muốn nói về nó
Bạn thích lĩnh vực gì thì xem : American shitcom à Hội thoại hàng ngày
Xem video: Xem những video không quá khó
Step 3: Pick up suitable material for your level
 Chọn tài liệu học đúng với trình độ của bạn
Ø  Khôn ghiểu > 50% chưa lên xem à Chưa lên xem, sẽ làm bạn nhụt trí
Ø  Hiểu > 80% à không học được nhiều cái mới, chỉ là cách duy trì tiếng anh
Ø  Không hiểu 30-40% à Nên xem
Ghi lại những từ lặp lại nhiều lần trong video, tra từ điển, xem biểu lộ cảm xúc của người nói trong video
Lựa chọn video phù hợp sẽ mang lại hiệu quả cao nhất.
Step 4: Repeat out loud ( Tự sướng)
Xác định từ mới, tra được từ à Nghe và nói từ đấy từ chính miệng của bạn
Nhắc lại to rõ, chính sác
VD: Subscribe à Phải nghe kỹ và lặp lại chính xác, từ này nhiều bạn phát âm thiết âm “S” ở giữa
Nhắc lại ngay lập tức để não bộ ghi nhận
Step5: Connect ( Liên tưởng từ mới)
Liên tưởng từ mới tới bất kỳ tới bất kỳ cái gì bạn đã biết đã quen thuộc tức trước
VD: Impotent ( bất lực ) vs Important
Từ “Bất lực” liên tưởng tới từ gần giống “Quan trọng”
Liên tưởng từ đồng nghĩa : Khi tra Eminent = clever, smart, intelligent   
Liên tưởng tới emotion, feeling của từ đó : disgusting = Kinh tởm : mỗi lần dùng từ này nghĩ về cảm xúc
Tập đặt câu liên kết các từ: my father think it is disgusting that my uncle is so impoten that he lét my eminent aunt become the breadwinner of his family
Step 6: Use the word and get feedback
Sử dụng ngay từ mình vừa học  với người bạn địa ( hoặc bạn bè) và hỏi họ mình dùng đúng không?
Bạn có thể dùng từ đó với bạn bè và nhận feedback. Cố gắng hỏi họ mình dùng từ đó có đúng không?
Hoặc đơn giản cố gắng viết status bằng tiếng Anh trên Facebook  rồi xem có bạn bè nào nhận xét không? đánh lên công cụ google để tra
Step 7: Review and continue practice
Mỗi ngày trước khi lên giường hãy nhẩm lại các câu và các cuộc hội thoại bạn đã học hôm đó. Ôn lại những câu bạn đã đặt.
Và nhớ hãy tiếp tục học nó trong những ngày tới 

Ta đi làm ở Trời Tây

"Bệnh ì, lười học hỏi và quan liêu trong nghề nghiệp đã hạn chế tôi quá nhiều trong hành trình tìm việc phù hợp ở xứ người. Ở đây, cơ may hoàn toàn không mỉm cười với kẻ bất tài, lười biếng”.

Thùy Mai, du học, làm thêm, làm việc, Tây, ta
 
Tác giả trong thời gian du học tại Úc – Ảnh do nhân vật cung cấp
Tôi, một phụ nữ vừa bước vào tuổi ba mươi lăm, khăn gói lên đường du học sau cuộc chia tay đầy nước mắt với chồng và hai đứa con. Chuyến bay dài tám tiếng của Hãng Hàng không Việt Nam đưa tôi đến với Melbourne, thành phố lớn thứ hai sau Sydney của đất nước Úc rộng lớn và xinh đẹp.
Melbourne vào thu thật lãng mạn và trữ tình. Những tòa nhà với kiến trúc Victoria ngập tràn hoa hồng, lãng đãng phủ đầy dây thường xuân. Muôn ngàn lá đỏ, lá vàng xào xạc dệt lên sắc xanh mượt mà của những thảm cỏ trải dài theo các đại lộ.
Xe của trường đưa tôi và ba cô bạn khác đi qua trung tâm thành phố. Tôi như choáng ngợp trước vẻ đẹp hiện đại của các tòa cao ốc của Melbourne. Xen lẫn trong sự kiêu hãnh của một thành phố phát triển, đâu đó chấm phá nét trầm mặc của những tháp nhà thờ cổ kính. Melbourne đã được tạp chí “The Economist” bình chọn là “Thành phố dễ sống nhất thế giới” dựa vào các tiêu chí văn hóa, thời tiết, giá cả sinh hoạt và điều kiện xã hội.
Tôi bận rộn việc học tiếng Anh của mình tại campus Clayton, trường Đại học Monash, một trong tám trường đại học hàng đầu của nước Úc. Clayton cách trung tâm thành phố khoảng 45 phút đi tàu điện. Tôi được nghỉ hai tháng sau khi kết thúc khóa học bồi dưỡng tiếng Anh. Melbourne lúc này bắt đầu vào đông. Cảm thấy chán vì mình đã khám phá gần hết thành phố xinh đẹp này, tôi lao vào cuộc hành trình mới để thử sức mình ở đất lạ xứ người.
Và thế là… tôi đi làm ở “Tây”.
Nông trại
“Tây” chỉ là cách ví von của người Việt Nam nếu một ai đó đi ra nước ngoài. Sau nhiều ngày tìm việc trên mạng, tôi đã được một farm (nông trại) nho ở vùng Tongala, cách Melbourne 300 km nhận làm.
Người chủ farm nho là một người Úc gốc Việt. Chị có giọng nói nhỏ nhẹ, dễ thương đặc trưng của người Nam Bộ. Công việc chính của tôi ở farm chủ yếu là cắt cành nho. Một luống nho khoảng 5 cây. Một ngày trung bình nếu cắt được hai luống nho, tôi sẽ được trả 100 đô-la Úc.
Chị chủ nông trại bảo tôi việc nhẹ nhàng và đơn giản, chỉ cần siêng năng là có thể kiếm được 1.400 đô trong hai tuần. Phát cuồng vì nghĩ mình sắp kiếm được món hời, tôi rủ thêm ba cô bạn ở cùng đi làm farm. Cả bọn thích thú chuẩn bị hành lý lên đường.
Đúng 10 giờ vào một ngày Chủ nhật đẹp trời, chúng tôi lên Southern Cross, ga trung chuyển giữa các tuyến tàu qua CBD của Melbourne để bắt chuyến tàu Vlines về Tongala. Sau hơn bốn tiếng đồng hồ lắc lư trên tàu, chúng tôi được vợ chồng chị chủ ra tận ga đón về farm. Đường về farm đi ngang qua các cánh rừng vắng vẻ, không thấy bóng dáng người, chỉ thấy những chú căng-gu-ru ngơ ngác nhảy ngang qua đường.
Khác với mường tượng của chúng tôi về một nơi ở thôn dã hiền hòa xinh đẹp như chúng tôi đã từng xem trong bộ phim “Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên”, nơi mà chúng tôi sẽ ở trong suốt hai tuần trông tạm bợ, tuềnh toàng và nhếch nhác như các lều đào vàng ở vùng Ballarat.
Phải có chừng hơn 40 người đến từ các nước khác nhau của Châu Á để làm farm như chúng tôi. Bốn chúng tôi cùng ở trong một căn phòng nhỏ hẹp mà mỗi ngày mỗi đứa phải trả 10 đồng. Không có nước máy sinh hoạt ngoại trừ nước mưa và các ao hồ nhỏ hẹp, vàng quánh. Bốn chúng tôi ngao ngán nhìn nhau, tự hỏi không biết mình đang làm gì ở cái chốn khỉ ho cò gáy này.
Một đêm ngủ say như chết sau chuyến đi dài. Người quản lý farm gọi chúng tôi dậy từ lúc 5 giờ sáng. Mắt còn cay xè vì ngái ngủ, chúng tôi cố gắng chuẩn bị thức ăn của ngày hôm trước để chuẩn bị ra farm. Lụ xụ trong chiếc áo phao dày xịch, tôi vội vàng xỏ chân vào đôi bốt và bước ra ngoài. Tiết trời lạnh giá khiến tôi ù hết cả tai, mắt cay xé. Người quản lý bảo 40 người chúng tôi sẽ chia làm hai nhóm. Mỗi nhóm lên hai xe để đi ra farm nho.
Đường lên farm nho vắng rợn người, chỉ có những tiếng kêu buồn thảm thiết của những chú quạ. Đó đây xuất hiện những dấu chân không biết của loài thú nào trông kỳ dị và bí hiểm. Tôi liếc mắt nhìn ba cô bạn của mình.
Kể từ khi đến nơi ở cho đến bây giờ, chúng tôi vốn là những đứa lắm lời, nhiều chuyện không biết tự tắt tiếng khi nào. Chẳng ai thèm nói với ai một lời. Tôi đọc được trong ánh mắt của ba cô bạn sự hoang mang và lo lắng. Cố gắng mở miệng để tếu táo đùa một câu cho không khí bớt phần ảm đạm nhưng hơi lạnh thọc sâu vào cổ họng khiến lưỡi tôi cứng đơ.
Từ nơi ở lên farm nho mất một tiếng đồng hồ. Đến nơi, mỗi chúng tôi được giao một chiếc kéo để cắt cành nho. Tôi bắt đầu công việc đầu tiên của mình từ khi đặt chân lên nước Úc với hai luống nho dài.
Đưa kéo cắt một dây nho đầu tiên, tôi lấy hết sức bình sinh mới cắt được. Thân nho tuy nhỏ, mảnh nhưng lại rất dai. Rồi nhát thứ hai, ba, tư rồi thứ năm, hai tay tôi tê cứng, lòng bàn tay sưng rộp lên. Cắt mãi vẫn chưa hết được một cây nho, tôi thảng thốt nhìn sang cô bạn “đồng nghiệp” người Nepal ở bên cạnh. Có vẻ như cô cũng mới vào làm giống tôi. Nhìn cô bặm môi bặm miệng cố cắt đứt thân nho trong cái giá lạnh tê người, tôi chợt nhếch miệng cười. Một nụ cười khan, khô và cay đắng.
Tôi là một sinh viên cao học, được học bổng do chính phủ Úc và Việt Nam hợp tác tài trợ. Lương một tháng của tôi dư sức để ăn, ở và chi tiêu ở Melbourne. Tại sao lại gồng mình đến nơi này? Tôi vừa rủa thầm sự ngu ngốc, dại dột của mình, vừa miệt mài làm theo quán tính cho đến khi họng khô rốc, bụng đói cồn cào.
Chúng tôi í ới gọi nhau ăn trưa. Không có lò vi sóng để hâm thức ăn, chúng tôi trệu trạo nhai lát bánh mì kẹp thịt xông khói cứng đơ, vất vưởng mùi ôi thiu của ngày hôm trước. Không khí nặng nề bao trùm. Vẫn không ai mở miêng nói được câu nào. Chúng tôi uể oải kết thúc bữa ăn với chai nước mưa mà tôi nhanh tay lấy được từ chỗ trú chân tối hôm qua.
Bìa rừng là nơi chúng tôi thường đến để giải quyết vệ sinh cá nhân trong suốt hai tuần làm farm. Nếu như ở Melbourne, nhà vệ sinh công cộng nhan nhản khắp nơi và không hề thấy bóng dáng ai tè bậy ngoài đường, thì ở trên farm, chúng tôi trở lại với thói quen như khi mình đang ở Việt nam. Mấy cô bạn người Nepal khinh khỉnh bảo chúng tôi cứ tè bậy như họ ngay ở luống nho mình làm. Đi ra bìa rừng vừa mất thời gian, vừa nguy hiểm vì lỡ có thú dữ tấn công.
Một ngày làm việc nặng nề, chậm chạp trôi qua. Tôi chỉ cắt được một luống nho. Không hoàn thành chỉ tiêu, tôi chỉ nhận được 50 đồng. Các cô bạn của tôi cũng thế.
Buổi tối, sau khi tắm rửa trong cái giá lạnh -10C với thùng nước vàng quạch, chúng tôi lại ngủ với nhau trong căn phòng chật chội. Hơi lạnh từ nền nhà tản vào lưng khiến tôi lạnh thấu xương, không tài nào chợp mắt được. Tôi ứa nước mắt. Nhiều trạng thái cảm xúc pha trộn. Tôi nhớ nhà, nhớ hai con. Nhớ hai đôi mắt long lanh như sao, nhớ giọng nói nũng nịu yêu yêu đến lạ. Nếu như bây giờ đang ở Việt Nam, hẳn tôi đang nằm trên một đống chăn nệm thơm tho trong căn phòng ấm cúng cùng với chồng và hai con.
Hai ba ngày một lần, chúng tôi được vợ chồng chủ farm chở ra chợ mua thức ăn. Nói là chợ nhưng nó chẳng khác chợ quê ở Việt Nam là bao lăm. Thức ăn đắt khủng khiếp vì tốn công vận chuyển. Muốn ăn ngon và đầy đủ chất, chúng tôi phải tiêu mất 10 đồng một ngày mỗi đứa. Dù xót tiền nhưng cũng chẵng có cách nào hơn. Một tuần lại trôi qua với ngày làm việc dài đăng đẵng, với những bữa ăn lạnh ngắt, với bàn tay phồng rộp và thân xác mỏi nhừ. Một cuộc sống không internet, không ti vi và không di động.
Tôi tình cờ gặp một người phụ nữ trạc tuổi mẹ chồng tôi 70 tuổi, bà Hoa ở farm nho. Quê bà Hoa ở Vĩnh Long. Bà qua đây đã vài chục năm và cũng làm farm đươc chừng đó thời gian. Không biết ngoại ngữ, không có bằng cấp, chứng chỉ, bà sống lạc lõng giữa cộng đồng người nói tiếng Anh ở Melbourne. Thất nghiệp, bà nhận được tiền trợ cấp xã hội hàng tháng của nước Úc để sinh sống qua ngày.
Bà dạy cho tôi một số mẹo vặt để cắt dây nho nhanh hơn và làm thế nào để không bị đau tay. Trông người bà nhỏ bé, gày yếu như thế nhưng khi bắt tay vào việc mới thấy bà đã được tôi luyện như thế nào trong môi trường quá ư khắc nghiệt này. Bà có thể cắt từ 3 đến 4 luống nho trong một ngày trong khi tôi cố gắng lắm mới cắt được một luống rưỡi.
Nhà hàng
Thời tiết ở Melbourne chẳng dễ chịu chút nào. Nắng đấy, mưa đấy. Lạnh đấy, nóng đấy. Đồng bóng như một bà góa đang vào thời tiền mãn kinh.
Tuần thứ hai của chúng tôi bắt đầu với cái nắng hanh gắt. Phơi mặt cả ngày giữa cái nắng và gió, mặt chúng tôi sạm hẵn đi. Của đáng tội, tiền làm ra không đủ để mua mỹ phẩm bù lại cho làn da xuống cấp. Một lần nhớ đời! Kết thúc vụ làm farm, sau khi trừ chi phí đi lại, ăn uống và ở hàng ngày, chúng tôi nhận được gần 600 Úc kim. Khi chuyến tàu Vlines đưa chúng tôi trở lại ga Southern Cross, cả bọn nhìn nhau mắt rưng rưng. Dường như đang trở lại cuộc sống thân quen mà mình đã đánh mất từ lâu lắm. Khoan khoái mỉm cười. Lại nhìn thấy người rồi!
Cái nết đánh chết không chừa. Tôi vẫn không bỏ cái thói ham công tiếc việc của mình. Lại sục sao các trang mạng tìm việc. Tuy nhiên lần này may mắn hơn, tôi nhận được lời đề nghị thử việc của một nhà hàng Thai Takeaway bận rộn ở Elsternwick. Công việc chính của tôi sẽ là bồi bàn. Tôi nói chuyện qua điện thoại với ông chủ nhà hàng là tôi không có kinh nghiệm về phục vụ bàn nhưng ông khuyến khích tôi là cứ thử xem một lần cho biết.
Y hẹn, tôi đến đấy vào buổi tối thứ Sáu. Do đến sớm hơn giờ mở cửa của nhà hàng, nên tôi được ông bà chủ đón tiếp tận tình, niềm nở. John, ông chủ nhà hàng là người Úc đáng mến và dễ tính như bao người Úc khác. Ông giải thích cặn kẽ công việc của tôi. Chủ yếu là nghe đặt hàng qua điện thoại, ghi lại số liên lạc, địa chỉ nhà, món ăn, hình thức thanh toán của khách hàng.
Thế nhưng khi bắt tay vào việc mới thấy nó hoàn toàn không đơn giản chút nào. Làm sao tôi có thể nhớ một lần cả hàng trăm món ăn của Thái với các tên gọi khác nhau ngay trong ngày đầu tiên. Lại còn phải hỏi khách hàng thích cay nhiều, cay ít và không cay, có nước dừa hay không có nước dừa… Tôi thử vai của ông chủ nhà hàng John nghe điện thoại khách hàng. Do căng thẵng, tôi không thể nghe đúng địa chỉ nhà và tên đường của khách hàng. Có lẽ do tôi chưa biết gì về vùng này nên không quen đường. Thậm chí tôi còn ghi sai số thẻ Master Card của khách hàng.
Rồi các món ăn, cả một mớ hỗn độn mà tôi không tài nào nhớ nổi. Bà chủ nhà hàng người Thái có dáng người đậm, mặt bự phấn. Bà tỏ ra rất khó chịu khi tôi nghe sai thông tin. Lần đầu tiên tôi cảm thấy mất tự tin và nghi ngờ khả năng tiếng Anh của mình. Qua Úc cả năm trời nhưng tại sao vẫn không nghe được dù chỉ là một cuộc điện thoại. Lại nguyền rủa mình, đôi khi tôi suy nghĩ đơn giản là mình có thể làm được mọi việc nhưng thực tế ở nước Úc, người ta làm việc rất chuyên nghiệp và bài bản. Một người tay ngang khó có thể nhận được việc nếu không có kinh nghiệm và được đào tạo đúng ngành, đúng nghề.
Hết giờ làm việc, John gói cho tôi phần ăn tối. Ông trả công 4 giờ làm việc vớ vẩn của tôi 60 đồng và hẹn chủ sáng Chủ nhật sẽ gọi lại. Tôi không biết hẹn gọi lại có phải là cách từ chối khéo léo của người Úc hay không nhưng mỗi khi tôi nghe ai đó ở Úc nói sẽ gọi lại có nghĩa là mình sẽ không được nhận việc.
Cổ cồn trắng
Chán với các công việc thời vụ, tay chân, tôi cố đăng ký vào một công việc phù hợp với kinh nghiệm ở Việt Nam và phù hợp với ngành mình đang học ở Melbourne.
Tình cờ tôi nhận được mẫu quảng cảo của Career One trong hộp mail của mình. Một công ty truyền thông tư nhân, Loungcraft ở Dandenong cần tuyển biên tập viên truyền hình. Tôi vội vã mông má đơn xin làm việc và CV của mình cùng với người tham khảo là hai ông giáo sư tiến sĩ đang trực tiếp dạy tôi ở trường Đại học Monash. Một tuần sau tôi nhận được thư mời phỏng vấn. Vì công ty Loungecraft chỉ cần tuyển người làm bán thời gian nên họ không quan tâm việc tôi là người bản xứ hay định cư lâu dài hay không. Vội vàng quơ mấy cuốn sách ở thư viện, tôi mang về nhà nghiến ngấu đọc lấy đọc để chuẩn bị cho cuộc phỏng vấn và làm bài kiểm tra.
Tôi bước vào bài kiểm tra kiến thức bằng việc dựng một trailer trên Macbook với phần mềm Final Cut Pro. Cùng thi với tôi có khoảng 10 ứng viên đến từ các nước khác nhau. Phân nửa là các bạn người bản xứ. Hy vọng tràn trề là mình sẽ nhận được việc này vì mình quá kinh nghiệm và được đào tạo bài bản, tôi cố gắng thể hiện hết tất cả những gì có thể. Trong số các trailer, tôi và một bạn ở địa phương được đánh giá cao về ý tưởng, kỹ thuật dựng và xử lý hiệu ứng hình ảnh. Tôi cố gắng thuyết trình về bài tập của mình một cách súc tích và hiệu quả. May mắn tôi được công ty đánh giá cao và lọt tiếp vào vòng hai.
Bước vào phần thi thứ hai với In Design, một phần mềm chuyên dụng dành cho tạp chí. Tôi vẫn đang còn học phần mềm này trong khóa học của mình. Loay hoay như gà mắc tóc vì không rành về lĩnh vực này, bài kiểm tra của tôi bộc lộ hết những điểm yếu của một người không chuyên. Vẫn là anh bạn người bản xứ và hai ứng viên khác đến từ Ấn Độ hoàn thành bài tập của họ một cách xuất sắc. Người quản lý của Loungecraft nói với tôi vì đây là công việc cần người gấp và trả lương nên họ không thể chờ đợi và đào tạo.
Trên chuyến tàu về ga Flinder street, tôi suy nghĩ rất nhiều. Có lẽ nếu người Úc hoặc các nước khác đến, họ chỉ cần nỗ lực 100%. Riêng tôi phải nỗ lực đến 200% hoặc hơn thế thì may ra mới kiếm được công việc “cổ cồn trắng” ở Melbourne.
Lúc còn ở Việt Nam, tôi sống trong ảo tưởng rằng mình là người có kiến thức và giỏi giang. Nhưng thực tế từ khi qua Úc cho đến bây giờ, tôi vỡ ra nhiều điều. Nhược điểm lớn nhất của tôi và phần lớn du học sinh Việt nam tại Úc đó là khả năng giao tiếp tiếng Anh. Chúng ta kém nhiều so với các bạn đến từ nước khác ở Châu Á, thậm chí còn thua các nước Đông Nam Á. Người Việt hay chê Trung Quốc nói tiếng Anh kém nhưng các sinh viên Trung Quốc mà tôi biết nói tiếng Anh tốt không thua gì người bản ngữ. Họ rất siêng năng và có tư duy nhạy bén.
Tôi cố vớt vát bằng cách xin thực tập ở đó một thời gian để lấy kinh nghiệm và học hỏi. Chỉ sau một thời gian, tôi phải bỏ dở công việc thực tập vì chỉ tính việc đi lại từ nơi tôi ở đến Dandenong và ngược lại ngốn mất của tôi 5 giờ đồng hồ vàng ngọc. Đành lỡ hẹn chờ dịp khác tốt hơn.
Gạ tình, lừa tiền trên Gumtree
Mặc dù cô bạn nhỏ của tôi nhiều lần cảnh báo về việc gạ tình lừa tiền trên Gumtree nhưng tôi vẫn kiên trì tìm việc ở trang web này. Thực ra tôi cũng muốn kiếm thêm chút tiền nhưng điều quan trọng nhất vẫn là hòa mình vào cuộc sống của Melbourne để khám phá nó.
Kích vào mục tìm người giúp việc (cleaner), tôi đọc được mẫu quảng cáo cần tìm người cho một người đàn ông độc thân bận bịu ở khu South Melbourne. Việc làm 3 giờ một ngày, tuần làm một lần. Tiền công 12 đồng một giờ kiêm thêm chi phí đi lại. Nghe cũng ổn, tôi viết mail cho người đàn ông này. Ông ta, Errold hồi âm và hẹn gặp tại nhà để chuẩn bị cho công việc. Đó là một căn phòng bừa bộn và cực kỳ luộm thuộm. Nếu như dọn dẹp sạch sẽ và gọn gàng chắc phải mất 5 tiếng đồng hồ. Cuộc gặp chóng vánh trôi qua, tôi nhanh chóng được ông ta ưu ái cho nhận việc.
Ngày đầu tiên, ngày thứ hai rồi ngày thứ ba trôi qua, Errold ở nhà nói chuyện với tôi. Errold bảo do công việc ngập đầu ngập óc cho nên đến ngần này tuổi ông vẫn chưa kết hôn. Ông ấy bảo đã vài lần qua Việt Nam, thích các món ăn Việt và rất ngưỡng mộ phụ nữ Việt. Rồi, Errold chùng giọng bảo tôi có việc muốn nói. Tim tôi đập loạn xạ, tôi sợ có việc không hay sẽ xảy ra với mình trong căn hộ này. “Tôi không muốn làm em hoảng sợ nhưng thú thật là tôi rất thích em. Tôi muốn em là người phụ nữ của tôi ở Úc. Tôi biết em có gia đình và vì thế em hãy giữ bí mật về điều này. Tôi sẽ cung cấp tiền cho em hàng ngày để ăn ở và đi lại”, Errold nói.
“Không bao giờ”. tôi mím môi. “Tôi không cần ai nuôi. Tôi có tiền. Tôi chỉ đi làm cho vui. Tôi không muốn phản bội chồng tôi.” Tôi định nói với Errold là nếu ông ấy đi quá xa tôi sẽ báo với cảnh sát vì tội quấy rối tình dục. Công việc cleaner của tôi nhanh chóng kết thúc chỉ vỏn vẹn trong ba ngày. Nhưng tôi vẫn tiếp tục tìm việc trên Gumtree. Tôi không hiểu vì sao Gumtree lại có sức hấp dẫn với tôi đến thế.
Một mẫu quảng cáo khá kêu đập vào mắt tôi. Một gia đình có con nhỏ đang tìm người giúp việc một ngày một tuần với giá 38 đồng một giờ. Làm phép tính nhanh, một ngày tôi có thể kiếm được 304 đồng, cao hơn lương nhân viên công sở, nếu được gia đình kia đồng ý. Thư xin việc nhanh chóng được gởi đi và cũng chóng nhận được hồi âm. Trong thư gia đình ấy bảo là họ rất lưu ý đến thư xin việc của tôi và đề nghị tôi gửi CV.
Tôi mừng rỡ khoe với cô bạn nhỏ cùng phòng cơ may của mình khi gia đình kia báo là họ sẽ nhận tôi làm người giúp việc. Họ bảo tôi rằng em họ của gia đình sẽ gọi cho tôi đến dọn dẹp trước ở căn hộ của họ trên đường Lonsdale một tuần nữa. Họ sẽ về nước vào giữa tháng Tư để sinh con. Vì phải trả tiền hàng tuần cho tôi qua tài khoản ngân hàng nên họ yêu cầu tôi gởi cho họ thông tin chi tiết về tài khoản ngân hàng. Họ cũng tha thiết muốn có bức hình của tôi để họ có thể biết mặt ai sắp làm việc cho họ.
Khó tả nổi niềm vui sướng của tôi khi đọc thư. Nếu được việc, tôi sẽ kiếm 1.200 Úc kim một tháng. Việc nhẹ, lương cao. Thỏa sức ăn chơi nhảy múa. Chia sẻ với cô bạn cùng phòng liệu có nên cung cấp chi tiết tài khoản của mình cho gia đình kia không, cô bạn đề nghị nói họ trả luôn tiền mặt. Tự nhiên tôi thấy chột dạ. Tôi nhớ loáng thoáng đâu đó trên Gumtree khuyên các ứng viên là không nên cung cấp thông tin tài khoản của mình cho bất cứ ai ở trên mạng. Tôi vội vàng kiểm tra lại, tá hỏa phát hiện ra Gumtree khuyến cáo không được cung cấp thông tin tài khoản cho bất cứ ai nếu chưa gặp mặt và nhận được việc làm.
Phúc đáp gia đình đó, tôi viết rằng không thể đưa họ thông tin tài khoản. Họ đang vi phạm luật chơi và tôi sẽ báo cáo lại điều này với Ban quản trị của Gumtree. May mắn cho tôi, tiền vẫn còn nguyên trong tài khoản.
Đôi lúc tôi cảm thấy mình chật vật để thích ứng với nhịp sống nhanh và hối hả ở Melbourne, cảm thấy khó nuốt với nền văn hóa đa sắc tộc này. Thế nhưng cuộc sống vẫn tiếp diễn với tất cả các cung bậc thăng trầm vốn có của nó. Tôi vẫn đi học, đi làm, dù làm những việc tay chân. Vui vì mình có việc và hái ra tiền. Chạnh lòng vì mình vẫn chưa bước chân vào được thế giới “cổ cồn trắng” của Mebourne. Một viên chức nhà nước Việt Nam với công việc tốt, có vị trí xã hội, nhưng, không len chân nổi vào xã hội “Tây” vì rào cản ngôn ngữ, IT thấp và chuyên môn kém cỏi của mình.
Trở về nhà sau một ngày làm việc cho hãng di dộng LycaMobile, từ stop 124 B của tram 96, tôi lang thang dọc theo sông Yarra để ngắm cảnh hoàng hôn đang buông phủ xuống thành phố. Một đám đông hiếu kỳ đang vây quanh bên bờ sông. Thì ra là kíp quay phim của hãng truyền thông nổi tiếng ABC của Úc chuẩn bị phỏng vấn trực tiếp một nhân vật nào đó của Quốc hội cho bản tin chiều của họ. Mắt tôi mờ đi, máu hừng hực chảy trong huyết quản. Đây chính là công việc tôi đang học, đam mê và thử vận may. Nhìn ê-kíp quay phim chạy lăng xăng để lấy bối cảnh phỏng vấn, tôi lại nhớ công việc của mình ở Việt Nam.
Trong suốt học kỳ 1, tôi cũng từng vác máy quay phim, đi làm phóng sự truyền hình khắp nơi ở Melbourne. Một người bản xứ trong lần phỏng vấn đã nói tôi rằng ông ấy tin tôi có khả năng làm việc ở đây. Vì tất cả những gì tôi đang làm thể hiện lòng nhiệt tình và say mê. Nhưng nhiệt tình và say mê thì vẫn chưa đủ. Những gì nước Úc cần còn là tính chuyên nghiệp, kỷ luật cao và tận tụy trong công việc. Tôi chợt thấy tiếc thời gian mình đã phí phạm trong suốt hơn chục năm kể từ khi tốt nghiệp ở Việt Nam. Bệnh ì, lười học hỏi và quan liêu trong nghề nghiệp đã hạn chế tôi quá nhiều trong hành trình tìm việc phù hợp ở xứ người. Ở Úc, cơ may hoàn toàn không mỉm cười với kẻ bất tài, lười biếng.
Tôi đứng vô hồn trên mố cầu treo bắc ngang dòng sông Yarra, con sông xinh đẹp không kém gì sông Seine hay Danube chảy qua thành phố Melbourne. Xa xa kia là sòng bài hoàng gia Crown, tòa nhà chọc trời Ereka Skydeck, nơi làm việc của tập đoàn truyền thông ABC, trụ sở tạp chí nổi tiếng “The Herald Sun”. Giọt nước mắt nóng hổi chợt lăn thầm trên má. Một cơn gió nhẹ thổi qua. Gió đưa giọt nước mắt kia hòa xuống dòng sông Yarra hay thổi nó đi ở một phương trời vô định nào?
(Theo Thùy Mai/ Nhịp Cầu Thế Giới)

Đầu tư bất động sản tại Úc

Tôi là một người đã từng có kinh nghiệm kinh doanh và đầu tư bất động sản tại Hà nội, sau gần 10 năm là doanh nhân tôi lại có duyên may tiếp tục sự nghiệp học hành ở Melbourne, một trong những thành phố lớn nhất tại Úc. Là một người đầu tư tôi nhìn thấy ngay cơ hội kinh doanh tại xứ sở chuột túi này. Bài viết này với mục đích phân tích cho các bạn thấy người Việt Nam chúng ta hoàn toàn có thể đầu tư bất động sản tại Úc với mức lợi nhuận và ổn định cao, không những vậy chúng ta còn đầu tư cho tương lại cho con cháu của chúng ta sau này. Bạn hãy tưởng tượng sau này con cháu bạn có khả năng hòa nhập với môi trường học tập quốc tế và sống trong chính căn nhà mà con cháu bạn có quyền sở hữu mãi mãi.
  Úc nằm trong danh sách những quốc gia có hệ thống cơ sở hạ tầng, giao thông và đặc biệt là hệ thống giáo dục hàng đầu, Nói đến Úc phải nói đến Melbourne – 1 trong những thành phố đáng sống nhất thế giới. Nền kinh tế Úc và đồng đô la Úc cũng là một trong những nền kinh tế ổn định hàng đầu thế giới. Vậy tại sao bạn không đầu tư vào bất động sản tại Úc trong khi giá bất động sản tại Việt Nam đang leo thang. Với 4 đến 5 tỉ đồng bạn hoàn toàn có thể sở hữu một bất động sản tại Úc.
 Ngoài ra, ở Úc có rất nhiều trường đại học, học sinh quốc tế chủ yếu đến từ Việt Nam, Trung Quốc và Ấn độ. Sau khi đầu tư mua bất động sản ở Úc bạn hoàn toàn có thể cho thuê lại với giá từ 1500 – 2000 đô. Hiện tại rất nhiều gia đình có điều kiện kinh tế tại Trung Quốc, Ấn Độ đổ xô mua bất động sản tại Úc trong nhiều năm nay, và tại các thành phố lớn ở Úc có những khu dân cư hầu hết là người Trung Quốc sở hữu.
Vì vậy có thể nói việc đầu tư để sở hữu một bất động sản tại Úc là một kênh đầu tư thông minh. Chắc chắn trong tương lai không xa xu hướng đầu tư vào bất động sản tại Úc là xu hướng tất yếu của các nhà đầu tư Việt Nam vì cộng đồng Việt Kiều, du học sinh Việt Nam hiện đang đứng thứ 2 tại Úc chỉ sau Trung Quốc.
Hiện tại, ở Việt Nam đã có một số công ty chuyên tư vấn tài chính, đầu tư tìm các nhà đầu tư rót tiền vào thị trường bất động sản tại Úc. Bạn hãy là nhà đầu tư nhanh nhậy và nắm bắt kịp xu hướng này.
Để tìm hiểu thông tin bạn có thể liên hệ với các công ty chuyên về lĩnh vực này
1. Golden Ant Housing JSC. www.HanoiHousing.net
Email: HanoiRealestate@gmail.com Hotline: +61449740607 (Mr Mike)
2. IFIG Australia www.ifig.com.au – Hotline 0986 188 805
Bạn hãy tham khảo bài phân tích dưới đây của IFIG về việc đầu tư bất động sản tại Úc
Đặc biệt hơn nữa, chính phủ Australia đang có những thay đổi về chính sách nhằm thu hút nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường bất động sản.
Được quyền sở hữu bất động sản tại Australia không thời hạn.
Được đứng tên sở hữu hợp pháp, không cần VISA vào Úc.
Được hỗ trợ vay vốn AUD từ những ngân hàng lớn & uy tín nhất của Australia (lên đến 70% giá trị đầu tư) với thủ tục nhanh gọn.
Điểm cộng cho hồ sơ di trú.
Cơ hội đầu tư bất động sản tại Úc chỉ với 3 tỷ đồng  - ảnh 1
Đây thực sự là một cơ hội vô cùng to lớn cho những nhà đầu tư đang tìm kiếm một thị trường đầu tư an toàn và hiệu quả.Nói riêng về thị trường bất động sản Úc từ năm 1999 đến nay, giá nhà trung bình tại Melbourne đã tăng hơn 124%, đạt mức trung bình AU$658,000/căn (REIV, 2014). Và có rất nhiều dự án khu nhà mới được xây dựng trở nên “đắt như tôm tươi”.
Cơ hội đầu tư bất động sản tại Úc chỉ với 3 tỷ đồng  - ảnh 2
Theo đánh giá của ông Michael Yardney (chuyên gia đi đầu trong lĩnh vực đầu tư bất động sản tại Úc), đến 2020 giá nhà bình quân ở Melbourne sẽ đạt khoảng AU$1,5 triệu/căn. Xu hướng này sẽ diễn ra hầu hết các thành phố lớn tại quốc gia này.
Cơ hội đầu tư bất động sản tại Úc chỉ với 3 tỷ đồng  - ảnh 3
Một ví dụ cụ thể cho nguồn lợi tức to lớn từ việc đầu tư bất động sản (BĐS) tại Australia mang lại được thể hiện qua biểu đồ sau với các số liệu tham khảo:
Cơ hội đầu tư bất động sản tại Úc chỉ với 3 tỷ đồng  - ảnh 4
– Tổng vốn đầu tư ban đầu AU$150,000 (3 tỷ VND).
– Tốc độ tăng trưởng hiện hành 10%/năm.
– Lãi suất vay ngân hàng Úc hiện hành 5%/năm.
– Giá trị BĐS đầu tư AU$500,000 – lợi tức cho thuê dao động AU$1,500 – $2,000/tháng.
Cơ hội đầu tư bất động sản tại Úc chỉ với 3 tỷ đồng  - ảnh 5
Theo đó, với dự án có tổng giá trị là 10 tỷ đồng ($500,000 AUD), nhà đầu tư chỉ cần chi ra khoảng 3 tỷ đồng ($150,000 AUD) vốn ban đầu, tương đương 30% giá trị của dự án. 70% còn lại sẽ được hỗ trợ cho vay từ ngân hàng với lãi suất ưu đãi 5%/ năm. Với chỉ số tăng trưởng giá nhà đất của Melbourne trung bình là 10%/năm trong hiện tại và dự đoán ổn định cho tới năm 2020, do đó tăng trưởng lợi nhuận sau 5 năm là khoảng 154% ($232,000 AUD) so với số vốn bỏ ra ban đầu là hoàn toàn khả thi. Đồng thời, lợi tức cho thuê hàng tháng ( từ $1,500 – $2,000 AUD) vừa giúp cho nhà đầu tư khấu trừ tiền lời ngân hàng (5%/năm = $1,458 AUD/ tháng), vừa tạo ra nguồn thu nhập đáng kể đóng góp cho lợi nhuận thu được từ dự án BĐS.
Chỉ từ một số vốn 3 tỷ ban đầu, nhà đầu tư đã có thể nắm trong tay cơ hội sở hữu BĐS ở Australia một cách hoàn toàn hợp pháp và mang lại lợi nhuận vô cùng to lớn!
Mọi chi tiết xin liên hệ 
1. Golden Ant Housing JSC. www.HanoiHousing.net
Email: HanoiRealestate@gmail.com Hotline: +61449740607 (Mr Mike)
2. IFIG Australia www.ifig.com.au – Hotline 0986 188 805

Chủ Nhật, 10 tháng 4, 2016

Mô 5 áp lực cạnh tranh của Michael Porter

Mô  5 áp lực cạnh tranh của Michael Porter

(Marketing Box) - Mô hình cạnh tranh hoàn hảo ngụ ý rằng tốc độ điều chỉnh lợi nhuận theo mức rủi ro là tương đương nhau giữa các doanh nghiệp và ngành kinh doanh. Tuy nhiên, vô số nghiên cứu kinh tế đã khẳng định rằng các ngành khác nhau có thể duy trì các mức lợi nhuận khác nhau và sự khác biệt này phần nào được giải thích bởi cấu trúc khác nhau của các ngành.

 

mo-hinh-5-ap-luc-michael-porter-five-forces

 

Michael Porter, nhà hoạch định chiến lược và cạnh tranh hàng đầu thế giới hiện nay, đã cung cấp một khung lý thuyết để phân tích. Trong đó, ông mô hình hóa các ngành kinh doanh và cho rằng ngành kinh doanh nào cũng phải chịu tác động của năm lực lượng cạnh tranh. Các nhà chiến lược đang tìm kiếm ưu thế nổi trội hơn các đối thủ có thể sử dụng mô hình này nhằm hiểu rõ hơn bối cảnh của ngành kinh doanh mình đang hoạt động.

Michael-Porter

 

Mô hình Porter’s Five Forces được xuất bản lần đầu trên tạp chí Harvard Business Review năm 1979 với nội dung tìm hiểu yếu tố tạo ra lợi nhuận trong kinh doanh. Mô hình này, thường được gọi là “Năm lực lượng của Porter”, được xem là công cụ hữu dụng và hiệu quả để tìm hiểu nguồn gốc lợi nhuận. Quan trọng hơn cả, mô hình này cung cấp các chiến lược cạnh tranh để doanh nghiệp duy trì hay tăng lợi nhuận.

 

Các doanh nghiệp thường sử dụng mô hình này để phân tích xem họ có nên gia nhập một thị trường nào đó, hoặc hoạt động trong một thị trường nào đó không. Tuy nhiên, vì môi trường kinh doanh ngày nay mang tính “động”, nên mô hình này còn được áp dụng để tìm kiếm trong một ngành nhất định các khu vực cần được cải thiện để sản sinh nhiều lợi nhuận hơn. Các cơ quan chính phủ, chẳng hạn như Ủy ban chống độc quyền và sát nhập ở Anh, hay Bộ phận chống độc quyền và Bộ Tư pháp ở Mỹ, cũng sử dụng mô hình này để phân tích xem liệu có công ty nào đang lợi dụng công chúng hay không.

 

Theo Michael Porter, cường độ cạnh tranh trên thị trường trong một ngành sản xuất bất kỳ chịu tác động của 5 lực lượng cạnh tranh sau:

 

1. Sức mạnh nhà cung cấp thể hiện ở các đặc điểm sau:

- Mức độ tập trung của các nhà cung cấp,

- Tầm quan trọng của số lượng sản phẩm đối với nhà cung cấp,

- Sự khác biệt của các nhà cung cấp,

- Ảnh hưởng của các yếu tố đầu vào đối với chi phí hoặc sự khác biệt hóa sản phẩm,

- Chi phí chuyển đổi của các doanh nghiệp trong ngành,

- Sự tồn tại của các nhà cung cấp thay thế,

- Nguy cơ tăng cường sự hợp nhất của các nhà cung cấp,

- Chi phí cung ứng so với tổng lợi tức của ngành.

 

2. Nguy cơ thay thế thể hiện ở:

- Các chi phí chuyển đổi trong sử dụng sản phẩm,

- Xu hướng sử dụng hàng thay thế của khách hàng,

- Tương quan giữa giá cả và chất lượng của các mặt hàng thay thế.

 

3. Các rào cản gia nhập thể hiện ở:

- Các lợi thế chi phí tuyệt đối,

- Sự hiểu biết về chu kỳ dao động thị trường,

- Khả năng tiếp cận các yếu tố đầu vào,

- Chính sách của chính phủ,

- Tính kinh tế theo quy mô,

- Các yêu cầu về vốn,

- Tính đặc trưng của nhãn hiệu hàng hóa,

- Các chi phí chuyển đổi ngành kinh doanh,

- Khả năng tiếp cận với kênh phân phối,

- Khả năng bị trả đũa,

- Các sản phẩm độc quyền.

 

4. Sức mạnh khách hàng thể hiện ở:

- Vị thế mặc cả,

- Số lượng người mua,

- Thông tin mà người mua có được,

- Tính đặc trưng của nhãn hiệu hàng hóa,

- Tính nhạy cảm đối với giá,

- Sự khác biệt hóa sản phẩm,

- Mức độ tập trung của khách hàng trong ngành,

- Mức độ sẵn có của hàng hóa thay thế,

- Động cơ của khách hàng.

 

5. Mức độ cạnh tranh thể hiện ở:

- Các rào cản nếu muốn “thoát ra” khỏi ngành,

- Mức độ tập trung của ngành,

- Chi phí cố định/giá trị gia tăng,

- Tình trạng tăng trưởng của ngành,

- Tình trạng dư thừa công suất,

- Khác biệt giữa các sản phẩm,

- Các chi phí chuyển đổi,

- Tính đặc trưng của nhãn hiệu hàng hóa,

- Tính đa dạng của các đối thủ cạnh tranh,

- Tình trạng sàng lọc trong ngành.

 

Phân tích năm lực lượng cạnh tranh

1. Mức độ cạnh tranh (Degree of Rivalry)

Trong mô hình kinh tế truyền thống, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đối thủ đẩy lợi nhuận tiến dần tới con số 0, nhưng trong cuộc cạnh tranh ngày nay, các doanh nghiệp không ngây thơ đến mức chịu chấp nhận giá một cách thụ động. Trên thực tế, các hãng đều cố gắng để có được lợi thế cạnh tranh so với đối thủ của mình. Cường độ cạnh tranh thay đổi khác nhau tùy theo từng ngành, và các nhà phân tích chiến lược rất quan tâm đến những điểm khác biệt đó.

 

Các nhà kinh tế đánh giá khả năng cạnh tranh theo các chỉ số về mức độ tập trung của ngành, và tỷ lệ tập trung (Concentration Ration – CR) là một trong những chỉ số phải kể đến đầu tiên. Chỉ số này cho biết phần trăm thị phần do 4 hãng lớn nhất trong ngành nắm giữ. Ngoài ra còn có chỉ số CR về tỷ lệ thị trường do 8, 25 và 50 hãng đầu ngành kiểm soát. Chỉ số càng cao cho thấy mức độ tập trung thị phần vào các hãng lớn nhất càng lớn, đồng nghĩa với việc ngành đó có mức độ tập trung cao. Nếu chỉ có một số hãng nắm giữ phần lớn thị phần, thì ngành sẽ mang tính cạnh tranh ít hơn (gần với độc quyền bán). Tỷ lệ tập trung thấp cho thấy ngành có rất nhiều đối thủ, trong đó không có đối thủ nào chiếm thị phần đáng kể. Các thị trường gồm nhiều “mảnh ghép” này được cho là có tính cạnh tranh. Tuy nhiên, tỷ lệ tập trung không phải là chỉ số duy nhất, bởi vì xu hướng định nghĩa ngành mang nhiều thông tin hơn so với sự phân bố thị phần.

 

Nếu mức độ cạnh tranh giữa các hãng trong một ngành thấp, thì ngành đó được coi là “có kỷ luật”. Kỷ luật này có thể là kết quả của lịch sử cạnh tranh trong ngành, vai trò của hãng đứng đầu, hoặc sự tuân thủ với các chuẩn mực đạo đức chung. Sự câu kết giữa các công ty nhìn chung là không hợp pháp. Trong những ngành có mức độ cạnh tranh thấp, các động thái cạnh tranh chắc chắn bị hạn chế một cách không chính thức. Tuy nhiên, một công ty không chấp nhận tuân thủ luật lệ mà tìm kiếm lợi thế cạnh tranh có thể làm mất đi cái thị trường “có kỷ luật” đó.

Khi một đối thủ hành động theo cách khiến các hãng khác buộc phải trả đũa, thì tính cạnh tranh ở thị trường đó sẽ tăng lên. Cường độ cạnh tranh thường được miêu tả là tàn khốc, mạnh mẽ, vừa phải, hoặc yếu, tùy theo việc các hãng nỗ lực giành lợi thế cạnh tranh đến mức nào.

 

Để có được lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ, một doanh nghiệp có thể chọn một số động thái cạnh tranh như sau:

- Thay đổi giá

– tăng hoặc giảm giá để có được lợi thế ngắn hạn.

- Tăng sự khác biệt của sản phẩm

– cải thiện các đặc tính, đổi mới quá trình sản xuất và đổi mới sản phẩm.

- Sử dụng các kênh phân phối một cách sáng tạo

– dùng hội nhập theo chiều dọc hoặc sử dụng một kênh phân phối mới chưa có trong ngành. Chẳng hạn như trong ngành buôn bán kim hoàn, các cửa hàng kim hoàn cao cấp ngần ngại không bán đồng hồ, hãng Timex đã chuyển tới các cửa hàng thuốc và các đại lý không truyền thống khác. Nhờ đó, hãng đã hoàn toàn làm chủ thị trường đồng hồ có giá từ thấp đến trung bình.

- Khai thác mối quan hệ với các nhà cung cấp – ví dụ, từ những năm 1950 – 1970, hãng Sears, Roebuck và Co. chi phối thị trường hàng gia dụng bán lẻ. Sears đã đặt ra các tiêu chuẩn chất lượng cao và yêu cầu các nhà cung cấp phải đáp ứng các yêu cầu về chỉ số kỹ thuật và giá sản phẩm của họ.

 

Cường độ cạnh tranh chịu ảnh hưởng của các đặc điểm ngành sau đây:

 

Số lượng công ty lớn. Số lượng công ty lớn làm tăng tính cạnh tranh, vì có nhiều hãng hơn trong khi tổng số khách hàng và nguồn lực không đổi. Tính cạnh tranh sẽ càng mạnh hơn nếu các hãng này có thị phần tương đương nhau, dẫn đến phải “chiến đấu” để giành vị trí chi phối thị trường.

 

Thị trường tăng trưởng chậm. Đặc điểm này khiến các hãng phải cạnh tranh tích cực hơn để chiếm giữ thị phần. Trong một thị trường tăng trưởng cao, các hãng có khả năng tăng doanh thu có thể chỉ do thị trường mở rộng.

 

Các chi phí cố định cao. Chi phí cố định cao thường tồn tại trong một ngành có tính kinh tế theo quy mô, có nghĩa là chi phí giảm khi quy mô sản xuất tăng. Khi tổng chi phí chỉ lớn hơn không đáng kể so với các chi phí cố định, thì các hãng phải sản xuất gần với tổng công suất để đạt được mức chi phí thấp nhất cho từng đơn vị sản phẩm. Như vậy, các hãng sẽ phải bán một số lượng rất lớn sản phẩm trên thị trường, và vì thế phải tranh giành thị phần, dẫn đến cường độ cạnh tranh tăng lên.

 

Chi phí lưu kho cao hoặc sản phẩm dễ hư hỏng. Đặc điểm này khiến nhà sản xuất muốn bán hàng hóa càng nhanh càng tốt. Nếu cùng thời điểm đó, các nhà sản xuất khác cũng muốn bán sản phẩm của họ thì cuộc cạnh tranh giành khách hàng sẽ trở nên dữ dội.

 

Chi phí chuyển đổi hàng hóa thấp. Khi một khách hàng dễ dàng chuyển từ sử dụng sản phẩm này sang sản phẩm khác, thì mức độ cạnh tranh sẽ cao hơn do các nhà sản xuất phải cố gắng để giữ chân khách hàng.

 

Mức độ khác biệt hóa sản phẩm thấp. Đặc điểm này luôn dẫn đến mức độ cạnh tranh cao. Ngược lại, nếu sản phẩm của các hãng khác nhau có đặc điểm hàng hóa khác nhau rõ rệt sẽ giảm cạnh tranh.

 

Khả năng thay đổi chiến lược cao. Khả năng thay đổi chiến lược cao xảy ra khi một hãng đang mất dần vị thế thị trường của mình, hoặc có tiềm năng giành được nhiều lợi nhuận hơn. Tình huống này cũng làm tăng tính cạnh tranh trong ngành.

 

Các rào cản “thoát ra” cao. Đặc điểm này khiến doanh nghiệp phải chịu một chi phí cao, nếu muốn từ bỏ không sản xuất sản phẩm nữa. Vì thế hãng buộc phải cạnh tranh. Rào cản này làm cho một doanh nghiệp buộc phải ở lại trong ngành, ngay cả khi công việc kinh doanh không thuận lợi lắm. Một rào cản phổ biến là tính đặc trưng của tài sản cố định. Khi nhà máy và thiết bị có tính chuyên môn hóa cao thì khó có thể bán các tài sản đó cho những ngành khác. Việc hãng Litton Industries giành được các thiết bị của hãng đóng tàu Ingall Shipbuilding minh họa rõ điều này. Litton đã rất thành công trong thập kỷ 1960 với các hợp đồng đóng tàu cho Hải quân. Nhưng khi chi quốc phòng của Mỹ giảm xuống, Litton nhận thấy rõ khả năng giảm doanh số cũng như lợi nhuận. Hãng quyết định cơ cấu lại, nhưng việc từ bỏ xưởng đóng tàu không thực hiện được, do không bán được các thiết bị đóng tàu đắt tiền và mang tính chuyên môn hóa cao. Cuối cùng, Litton buộc phải ở lại trong thị trường đóng tàu đang xuống dốc.

thiết kế nhận diện thương hiệu  |  thiết kế logo  |  Thiết kế bao bì

Golden Ant Housing